Đầu tiên mời các bạn đọc đề.
Bước 1.Phân tích đề & xác định thứ tự xử lý các dạng bài tập
Nhìn vào passage này, chúng ta thấy có tổng cộng 13 câu hỏi chia cho 3 dạng bài tập là True/False/Not given, Matching features (hay còn gọi là Categorisation – câu hỏi phân loại) và Diagram label completion
So sánh 3 dạng bài tập này, dạng Matching features là dễ nhất do hỏi liên quan đến năm xảy ra sự kiện, việc scan con số (mà ở đây là năm) sẽ dễ hơn so với Diagram labelling (scan chữ, nhưng dạng này dễ hơn T/F/NG do nó có hình ảnh, bạn dễ đối chiếu với bài đọc, và câu trả lời chỉ nằm tập trung ở 1-2 đoạn nào đó chứ không rải rác như T/F/NG). Khó nhất là True/False/Not given do dạng bài này đòi hỏi bạn phải hiểu thật kỹ để xác định nội dung câu đó là đúng hay sai hay không được đề cập, thông tin cần tìm sẽ nằm rải rác trong bài nên sẽ mất thời gian scan hơn. Quy tắc ‘dễ trước, khó sau’ được áp dụng, vậy ta sẽ làm theo thứ tự đầu tiên là Matching features, rồi đến Diagram Labelling, cuối cùng là T/F/NG.
Bước 2. Skim toàn bài đọc
Dù phương pháp của bạn có là đọc câu hỏi trước hay đọc bài trước thì skimming vẫn là bước bạn tốt hơn hết là nên làm. Skimming tức là đọc thật nhanh để nắm ý tổng quát của toàn bài đọc. Có nhiều cách để skimming và chúng mình khuyến khích các bạn làm theo các bước sau khi skimming
- Đọc ngay và luôn tiêu đề (title), subheading (các tiêu đề phụ, thường là các dòng chữ nhỏ ngay dưới title và được in nghiêng), các ảnh minh hoạ, biểu đồ, sơ đồ hoặc bất cứ cái gì trong bài được in nghiêng, in đậm và cố gắng đoán xem bài nói về chủ đề gì.
- Đọc các câu đầu của tất cả các đoạn văn trong bài đọc và tìm cách hiểu ý nghĩa của chúng. Các câu đầu của đoạn thuường là topic sentence – câu chủ đề nêu ý tổng quát của đoạn. Cố gắng hiểu và liên kêt các ý này lại để xem bài đang nói hoặc chứng minh điều gì.
Lưu ý: cốt lõi của skimming là TỐC ĐỘ nên bạn không được phép đọc từ từ, hoặc dừng lại khi có từ nào không hiểu. Nếu có từ mới cứ việc lướt qua và cố gắng đoán ý. Nếu skim hết bài đọc mà chưa đoán được ý chung thì cũng đừng sợ, bạn có thể hiểu về bài đọc bằng cách đọc các câu hỏi (và tin mình đi là cách này thường hiệu quả hơn do từ vựng trong câu hỏi LUÔN DỄ HƠN từ vựng trong bài đọc). Mục tiêu của Skimming là nắm ý chung nên đừng đọc kỹ vì bạn sẽ bị sa đà và tốn thời gian. Bạn sẽ đọc cơ hội đọc kỹ khi khoanh vùng và scan thông tin để tìm câu trả lời.
Áp dụng cách trên vào passage ở trên, ta sẽ skim và đọc hiểu các phần sau:
Title: Raising the Mary Rose / Trục vớt Mary Rose
*Khi đọc title này bạn sẽ chưa hiểu Mary Rose là cái gì, bạn đọc động từ raise không hiểu nó là trục vớt thì cũng không sao cả, chỉ cần hiểu raise nghĩa là nâng lên. Vậy dịch theo kiểu thô ban đầu thì title này là 'Nâng Mary Rose lên')
Subheading: How a sixteenth-century warship was recovered from the seabed. / Chiến hạm của thế kỷ XVI đã được trục vớt khỏi đáy biển như thế nào.
*Đọc đến đây bạn sẽ thấy từ warship là tàu chiến, chiến hạm, was recovered là được khôi phục, seabed là đáy biển. Liên kết lại thì ta sẽ hiểu Mary Rose là tên của chiếc tàu chiến và raising ở đây mang nghĩa là đem chiếc tàu chiến này từ đáy biển lên, tức là trục vớt lên. Suy luận logic ra tiếp là chiếc tàu cổ này (thế kỷ XVI) bị đắm từ lâu và nay được trục vớt lên.
Câu đầu đoạn đầu tiên: On 19 July 1545, English and French fleets were engaged in a sea battle off the coast of southern England in the area of water called the Solent, between Portsmouth and the Isle of Wight. / Vào ngày 19 tháng 7 năm 1545, hải quân Anh và Pháp đã chạm trán với nhau ngoài khơi bờ biển phía nam nước Anh tại vùng biển Solent nằm giữa Portsmouth và đảo Wight.
Câu đầu đoạn thứ hai: The Mary Rose came to rest on the seabed, lying on her starboard (right) side at an angle of approximately 60 degrees. / Mary Rose chìm xuống đáy biển, nằm nghiêng về phía mạn phải tàu 1 góc xấp xỉ 60 độ.
Câu đầu đoạn thứ ba: Then, on 16 June 1836, some fishermen in the Solent found that their equipment was caught on an underwater obstruction, which turned out to be the Mary Rose. / Sau đó, vào ngày 16 tháng 6 năm 1836, một số ngư dân ở Solent đã tìm thấy các dụng cụ đánh cá của mình bị mắc vào một vật thể ở dưới nước mà hóa ra sau này lại được xác định là tàu Mary Rose.
Hai câu đầu đoạn thứ tư: The Mary Rose then faded into obscurity for another hundred years. But in 1965, military historian and amateur diver Alexander McKee, in conjunction with the British Sub-Aqua Club, initiated a project called ‘Solent Ships’. / Chiến hạm Mary Rose sau đó lại chìm vào quên lãng trong khoảng một trăm năm nữa. Tuy nhiên, đến năm 1965, Alexander McKee, 1 sử gia quân sự đồng thời cũng là 1 thợ lặn nghiệp dư, đã hợp tác với câu lạc bộ lặn biển Sub-Aqua của Anh để khởi xướng dự án “Solent Ships”.
*Lý do bạn phải đọc 2 câu ở đoạn này là do câu tiếp theo bạn thấy từ 'but', điều này đồng nghĩa là ý chưa hết mà nó đang tiếp tục ở câu kế. ('but' là một liên từ độc lập - coordinating conjunction liên kết 2 mệnh đề có ý trái ngược và 2 mệnh đề này có tầm quan trọng ngang nhau, do đó thấy từ 'but' thì phải đọc tiếp. Người viết ngắt câu ngay từ 'but' là để tránh câu quá dài)
Câu đầu đoạn thứ năm: Further excavations revealed stray pieces of timber and an iron gun. / Những tấm gỗ rời và 1 khẩu súng bằng sắt đã được tìm thấy ở những cuộc thăm dò tiếp theo.
Hai câu đầu đoạn cuối cùng: An important factor in trying to salvage the Mary Rose was that the remaining hull was an open shell. This led to an important decision being taken: namely to carry out the lifting operation in three very distinct stages. / Trong nỗ lực trục vớt Mary Rose thì việc thân tàu hở sườn có ảnh hưởng rất lớn. Điều này đã khiến cho họ quyết định trục vớt tàu theo 3 giai đoạn riêng biệt.
*Lý do bạn phải đọc 2 câu ở đoạn này là do topic sentence thực chất chính là câu 'This led to an important decision being taken: namely to carry out the lifting operation in three very distinct stages' nêu lên ý của nguyên đoạn là mô tả 3 giai đoạn trục vớt tàu. Câu phía trước chỉ là để dẫn dắt câu sau.
Tổng kết lại sau khi skim: bài nói về lịch sử phát hiện và cách trục vớt tàu chiến Mary Rose - một câu tàu cổ. Đầu tiên nói sơ về lịch sử con tàu này thời thế kỷ XVI. Sau đó miêu tả sơ tình trạng con tàu này chìm dưới biển. Nó tình cờ được phát hiện ra bởi những ngư dân nhưng rồi sau đó bị chìm vào quên lãng cho đến tận năm 1965 thì dự án Solent Ships được tiến hành. Cuộc thăm dò và tìm kiếm con tàu thu được 1 số kết quả và cuối cùng là các bước của quá trình trục vớt nó lên.
Bước 3. Đọc câu hỏi 'matching features'
Như đã nói, chúng ta sẽ làm dạng bài tập này trước nên sẽ đọc đề / câu hỏi, phân tích và xác định các keyword cần nhớ.
5. Việc tìm kiếm tàu Mary Rose được khởi xướng (launch).
6. Sự khám phá vị trí của tàu Mary Rose của 1 người nào đó đã bị dừng lại. (câu này các bạn đọc kỹ từ 'site', đừng chỉ đọc tới 'of the Mary Rose' rồi lướt vì 'site - vị trí' mới chính là danh từ quan trọng. Câu này nghĩa là sự khám phá vị trí của con tàu, chứ không phải khám phá con tàu. Nhiều bạn học sinh mình dạy đã mắc lỗi đọc không kỹ này nên dù đọc hiểu tất cả các từ trong câu các bạn vẫn làm sai câu này).
7. Thân tàu Mary Rose được đồng ý là nên được trục vớt lên.
8. Vị trí của tàu Mary Rose được tình cờ tìm thấy (cụm 'by chance' có nghĩa là tình cờ, không có chủ ý).
Bước 4. Khoanh vùng và scan bài đọc để trả lời câu hỏi 'matching features
Giờ để xử lý thì hãy cùng xem lại lý thuyết cách làm trong bài viết 'Phân tích 14 dạng câu hỏi trong đề thi IELTS Reading Academic & chiến lược giải quyết'
6 – Matching features (hay còn gọi là Categorisation – câu hỏi phân loại) Phân loại thông tin trong câu hỏi vào trong số các nhóm được cho | · Scan và xác định thông tin chi tiết · Phân loại thông tin | Không theo thứ tự | · Đọc thông tin trong câu hỏi · Khoanh vùng và xác định thông tin trong bài: có năm thì scan & khoanh tròn năm, có tên thì scan & khoanh tròn tên riêng, có loại nào thì scan & khoanh tròn loại đó. Sau đó đọc những câu vòng vòng quanh đó sẽ có câu trả lời cần tìm. · Cẩn thận có những câu sẽ bị paraphrase |
Đề cho 7 năm, nhưng chỉ có 4 câu hỏi, tức là sẽ có 3 năm không xài. Scan số là dễ nhất nên bạn cứ khoanh trong bài đọc những năm mà đề cho rồi đọc những gần gần đó, chắc chắn là câu trả lời cần tìm sẽ nằm đâu đó. Nhớ vừa làm vừa khoanh, vừa gạch chận, làm được câu nào đánh dấu ngay câu đó. Và dạng bài tập này không theo thứ tự bài đọc nên đừng dò theo thứ tự nha.
Ví dụ như đây là mình khoanh tròn năm và gạch chân các ý vòng vòng xung quanh mà mình đọc để tìm đáp án. Cách để chọn đáp án là bạn cứ tìm từ nào trong đề mà có từ đồng nghĩa, hoặc diễn đạt cùng ý ở trong bài (paraphrase) thì đó chính là câu đó. Cốt lõi lớn nhất của thi IELTS là paraphrase mà.
Bây giờ bạn đọc từng câu của đề và dò dọc theo từng năm, thấy câu nào match với năm nào là chốt liền đáp án.
Câu 5. A search for the Mary Rose was launched. Từ khoá quan trọng là từ launch, mình sẽ kiếm từ nào đồng nghĩa. Dò từ trên xuống thì mình dò đến năm 1965, "military historian and amateur diver .... initiated a project called 'Solent Ships'. Từ initiate /i'ni∫ieit/ (v) nghĩa là bắt đầu, khởi xướng. Dự án Solent ships là dự án được mong đợi sẽ tìm ra tàu Mary Rose, find = search. Vậy đáp án câu 5 là C (1965).
Đáp án nào chọn rồi thì bạn gạch đi, và trong bài đọc thì lướt qua chỗ năm đấy để scan các năm khác, điều này nghĩa là các câu càng về sau thì sẽ càng làm nhanh hơn do mình đã thu hẹp phạm vi tìm kiếm lại.
Câu 6. Tiếp tục dò câu này từ trên xuống, mình sẽ thấy năm 1840, "Deane continued diving on the site intermittenly until 1840 recovering ..." Câu này nghĩa là Deane (tên người thợ lặn) đã tiếp tục lặn xuống tại vị trí đó (vị trí con tàu) theo nhiều đợt ngắt quãng (intermittenly, tức là ông này không lặn xuống liên tục mà có khi ổng lặn, rồi 1 thời gian sau lặn tiếp) cho đến năm 1840 mà đã vớt được vài khẩu súng,.... Đọc đến đây mình lướt xuống câu đầu đoạn kế sẽ 'The Mary Rose then faded into obscurity for another hundred years', tức là sau đó con tàu này bị rơi vào lãng quên trong 100 năm tiếp theo. Nghĩa là sự khám phá ngay tại vị trí con tàu bị ngừng vào năm 1840. Vậy đáp án câu 6 là B (1840).
Câu 7. Câu này bị bẫy nhiều lắm nên các bạn đọc kỹ nhé. Dò từ trên xuống mình sẽ thấy hai năm 1979 và 1982 là có khả năng chính là đáp án. Nhìn vào năm 1979 trước. The Mary Rose Trust (Hội đồng chịu trách nhiệm tìm tàu Mary Rose) was formed (được thành lập), with Prince ... (lướt qua chỗ này, đừng đọc kỹ do nó chỉ đang liệt kê những thành viên chủ chốt của Hội Đồng này). The decision whether or not to salvage the wreck was not an easy one, although an excavation in 1978 had shown that it might be possible to raise the hull. / Việc quyết định có trục vớt xác tàu lên hay không là quyết định không dễ dàng, mặc dù một cuộc thăm dò vào năm 1978 đã cho thấy có thể kéo thân tàu lên được. Câu này có nghĩa là vấn đề có nên vớt tàu lên không đã được đưa ra nhưng chưa thống nhất được, nên chắc chắn câu này là không khớp với đề: 'It was agreed that the hull of The Mary Rose should be raised'. Đọc tiếp năm 1982. While the original aim was to raise the hull if at all feasible, the operation was not given the go-ahead until January 1982, when all the necessary information was available. / Mặc dù mục đích ban đầu của họ là trục vớt thân tàu lên nếu có thể nhưng mãi đến tận tháng giêng năm 1982, khi tất cả các thông tin cần thiết được thu thập đầy đủ, họ mới bắt đầu tiến hành việc trục vớt. Vậy tức là đến tận năm này người ta mới chốt là sẽ vớt con tàu lên. Đáp án câu 7 là G (1982).
Câu 8. Mấu chốt câu này là 'found by chance', tức là phải tìm cụm từ nào cho thấy sự tình cờ, ngẫu nhiên. Đọc từ trên xuống ta thấy năm 1836. Then, on 16 June 1836, some fishermen in the Solent found that their equipment was caught on an underwater obstruction, which turned out to be the Mary Rose. / Sau đó, vào ngày 16 tháng 6 năm 1836, một số ngư dân ở Solent đã tìm thấy các dụng cụ đánh cá của mình bị mắc vào một vật thể ở dưới nước mà hóa ra chính là tàu Mary Rose. Từ cho thấy sự tình cờ ở đây là "turn out to", vì các ngư dân này tình cờ bị mắc kẹt dụng cụ vào vật gì đó dưới đó, họ muốn lấy nó ra nên mới nhờ thợ lặn Deane và nhờ vậy mới biết vật đó chính là tàu Mary Rose. Đáp án câu 8 là A (1836)
Bước 5. Đọc câu hỏi 'Diagram label completion' và khoanh vùng thông tin
Nếu bạn biết cách quan sát kỹ thì sẽ khoanh vùng thông tin bài này rất nhanh và sẽ tốn ít thời gian scan và chọn từ chính xác hơn.
Kinh nghiệm là những cái gì in đậm, in hoa thì cứ đọc hết đi. Ở đây bạn sẽ thấy cái ảnh minh hoạ quy trình này có title riêng của nó. Nhiều bạn bỏ qua không đọc thì rất đáng tiếc do nó góp phần giúp bạn khoanh vùng thông tin.
Như đã biết, dạng bài tập labeling diagram này thì thông tin chỉ nằm ở 1 -2 đoạn văn trong bài đọc chứ không nằm rải rác toàn bài nên mình cần tìm đoạn nói về cái diagram thôi. Đọc trong bài mình sẽ thấy tiến trình trục vớt có 3 stage, nhưng đề chỉ yêu cầu stage 1 & 2, thì chỉ cần đọc nhiêu đó thôi, không cần đọc stage 3 (thấy từ 'third stage' là biết đọc từ chỗ đó trở lên trên chứ không cần đọc khúc dưới). Đề có 2 cái hình thì tương đương là mỗi hình cho 1 stage, vậy là stage 1 là hình trên, stage 2 là hình dưới (thấy từ 'second stage' thì đánh dấu nó lại để biết là khúc trên là stage 1, lát scan khúc này để trả lời hình trên; còn khúc ở giữa từ 'second stage' đến 'third stage' là chỗ thông tin scan cho hình dưới). Vậy là mình đã khoanh vùng được chi tiết rồi, chỉ tìm tìm từ nữa thôi. Vậy nên mình nhấn mạnh lại là kỹ năng khoanh vùng thông tin là CỰC KỲ QUAN TRỌNG.
Bước 6. Scan tìm từ
12 – Diagram label completion Dán nhãn cho các bước / quá trình của một biểu đồ, sơ đồ | · Khoanh vùng và scan thông tin chi tiết trong bài đọc · Chọn đúng từ thích hợp
| Có khi theo thứ tự, có khi không. Tuy nhiên, câu trả lời sẽ nằm tập trung ở 1 đoạn văn nào đó chứ không nằm rải rác trong cả bài đọc. | · Xác định loại từ thích hợp để điền vào chỗ trống (danh / động etc) · Khoanh vùng và xác định đoạn văn có thông tin liên quan · Ráp nối thông tin trong bài đọc với sơ đồ trong câu hỏi · Chọn từ thích hợp · Đặc biệt chú ý vào ngữ pháp vì nó sẽ giúp có thêm manh mối để chọn đúng từ · Đọc kỹ đề yêu cầu ‘No more than --- words’ để chọn đúng số từ |
Nhớ là No more than two words
Nhớ là phải xác định loại từ
Scan từ của diagram dễ hơn so với các bài tập khác, đặc biệt là diagram của 1 tiến trình, quy trình khoa học, kỹ thuật thì càng dễ do nó sẽ dùng nhiều danh từ đặc thù, tức là những danh từ này không dễ thay thế, không dễ bị paraphrase nên khả năng là bài đọc sẽ dùng từ y chang như trong diagram. Việc mình cần làm là lần theo các từ này và đọc hiểu nghĩa câu rồi chọn từ.
Lấy ví dụ câu 9. "...................... attached to hull by wires", loại từ cần điền là danh từ đóng vai trò chủ từ do câu này đã có động từ chính là 'attached' mà chưa có chủ từ. Các danh từ đặc thù là hull, wire, từ 'attach' là động từ vẫn có thể bị paraphrase. Câu này nghĩa là cái gì gì đó gắn với thân tàu (hull - nếu bạn không biết hull là gì thì cứ kệ nó, cứ gọi nó là hull thôi) thông qua những sợi cáp (wires - tương tự, không biết thì cứ kệ, nhưng từ wire này khá phổ biến nên mình khuyên các bạn ghi chú lại để nhớ). Dò qua bài đọc ngay vị trí đã khoanh vùng, ta sẽ thấy thông tin cần tìm nằm ngay trong câu: "The hull was attached to a lifting frame via a network of bolts and lifting wires. / Thân tàu được gắn vào khung đỡ thông qua mạng lưới dây cáp đỡ và bu lông". Bạn sẽ thấy các từ hull, attached, wires đều được dùng và nó hoàn toàn khớp về mặt ý nghĩa. Vậy từ cần điền là 'lifting frame' (không để mạo từ 'a' nha, do chỉ cho phép 2 từ.
Câu 10. làm tương tự. sucked back downwards: bị hút ngược xuống, mud = bùn, sình lầy, overcome = prevent. Đáp án là hydraulic jacks (giắt cắm thuỷ lực).
Câu 11. 'Legs' được dùng y nguyên ở cả 2 bên (bài đọc lẫn đề), placed into (được đặt vào trong) = locate into. Đáp án là 'stabbing guides' (không có từ 'the' nhé)
Câu 12. 'Hull' được dùng y nguyên, lowered into (hạ thấp vào trong) = transferred into (di chuyển vào trong).Đáp án là 'lifting cradle' (không có từ 'the' luôn)
Câu 13. 'Extra protection for the hull' (tăng thêm sự bảo vệ cho thân tàu) = additional cushioning for the hull's delicate timber framework (sự đệm thêm cho bộ khung gỗ mỏng manh của thân tàu). Đáp án là 'air bags'
Bạn nhớ 1 điều là diagram thì thứ tự quy trình sẽ không nhất thiết tuân theo thứ tự trong bài đọc nhé. Ở đây, thông tin câu 12 xuất hiện trước thông tin câu 11.
Sau khi làm 2 bài tập liên quan đến thông tin chi tiết, chúng ta đã đọc được khá nhiều thông tin trong bài rồi. Giờ bắt đầu quay ngược lên cân sức với bài True/False/Not Given
Bước 7. Đọc câu hỏi 'True/False/Not Given'
Bắt đầu bằng việc đọc hiểu từng câu và xác định keyword. Việc cần làm lúc này nữa là ĐOÁN câu trả lời. Do phần nào bạn đã có kiến thức sau khi làm 2 bài ở trên rồi nên lúc này đã có thể đoán được ý câu này là True hay False hay Not given. Cứ đoán thôi chứ khoan hẵng ghi, mà nếu bạn không đoán được thì không sao đâu. Điều quan trọng là bạn phải khoanh vùng được ngay cần đọc chỗ nào trong bài đọc để kiểm chứng lại đáp án của mình. Nhờ đọc hết nguyên bài rồi nên giờ việc này dễ hơn nhiều.
Trong đề mà các bạn thấy ngày, tháng, năm hay tên riêng thì nên vui mừng vì mình sẽ dùng chính các manh mối này để scan. Những thông tin này đều không thể paraphrase nên rất dễ scan trong bài và đáp án chắc chắn nằm đâu đó quanh những chỗ gấn đấy.
Bước 8. Khoanh vùng và scan bài đọc để trả lời câu hỏi 'T/F/NG'
Để xử lý thì hãy cùng xem lại lý thuyết cách làm trong bài viết 'Phân tích 14 dạng câu hỏi trong đề thi IELTS Reading Academic & chiến lược giải quyết'
2 – Identifying information (True / Fasle / Not Given) Quyết định xem thông tin trong câu hỏi là True (đúng) hay False (sai) hay Not Given (không được đề cập) | · Scan thông tin chi tiết · Hiểu thông tin ý nghĩa của các thông tin này | Đôi khi theo thứ tự, đôi khi không. Nhưng đa phần là theo thứ tự | · Hiểu đúng ý nghĩa của T/F/NG + True: thông tin trong câu hỏi khớp hoàn toàn với thông tin trong bài đọc + False: thông tin trong câu hỏi sai hoàn toàn với thông tin trong bài đọc. + Not given: thông tin trong câu hỏi không thể tìm thấy trong bài đọc. Mẹo để phân biệt False với Not given là nếu câu đó False, dựa vào bài đọc, ta có thể sửa lại câu đó cho đúng; còn nếu câu đó Not given thì ta không thể làm gì cả. · Đọc câu hỏi và các đáp án trắc nghiệm, paraphrase chúng. · Khoanh vùng và xác định thông tin trong bài để đưa ra câu trả lời |
Lưu ý bạn là dạng bài tập T/F/NG hay Y/N/NG thì ba đáp án sẽ luôn được sử dụng nhưng không có nghĩa là số lượng đáp án sẽ được chia đều. Tức là có tổng cộng 6 câu thì không có nghĩa là 2 câu T, 2 câu F, 2 câu NG, mà nó hoàn toàn có thể là 1 câu T, 2 câu F và 3 câu NG. Bạn xem chi tiết tại bài viết: Cách để làm đúng tất cả các câu hỏi Y/N/NG và T/F/NG.
Đáp án và lời giải chính xác là:
1. T. Câu trong bài và câu trong đề có ý giống nhau được paraphrase lại. Câu trong bài: Accounts of what happened to the ship vary....What is undisputed, however, is that the Mary Rose sank into the Solent that day/ Nhiều giả thuyết về điều xảy ra với Mary Rose đã được đưa ra .... Tuy vậy, điều không thể chối cãi là Mary Rose đã chìm xuống vùng biển Solent ngày hôm ấy. Trong đề: There is some doubt about what caused the Mary Rose to sink / Có vài sự nghi ngờ về thứ đã làm đắm tàu. Tức là không biết lý do gì tàu bị đắm, nhiều người đặt nhiều giả thuyết này nọ.
2. NG. Câu trong bài: On 19 July 1545, English and French fleets were engaged in a sea battle off the coast of southern England in the area of water called the Solent, between Portsmouth and the Isle of Wight. / Vào ngày 19 tháng 7 năm 1545, hải quân Anh và Pháp đã chạm trán với nhau ngoài khơi bờ biển phía nam nước Anh tại vùng biển Solent nằm giữa Portsmouth và đảo Wight. Câu này chỉ nói là có một trận chiến vào ngày này, chứ không nói Mary Rose là con tàu duy nhất chìm.
3. T. Câu trong bài và câu trong đề có ý giống nhau được paraphrase lại. Câu trong bài: Because of the way the ship sank, nearly all of the starboard half survived intact. / Bởi vì cái cách mà con tàu chìm nên gần như toàn bộ (nearly all) nửa mạn phải (the starboard half) vẫn còn giữ được nguyên vẹn (survived intact). Most of one side = nearly all of the starboard half; survived intact = lay undamaged.
4. F. Câu trong bài: McKee and his team now knew for certain that they had found the wreck, but were as yet unaware that it also housed a treasure trove of beautifully preserved artefacts. / McKee và cả nhóm lúc bấy giờ đã chắc chắn rằng họ đã tìm được con tàu, chỉ có điều họ vẫn chưa biết rằng con tàu này cũng chứa cả 1 kho báu các tạo vật tuyệt đẹp được bảo quản tốt. Câu trong đề sai, và nếu sửa lại thì phải là: "Alexander McKee did not know that the wreck would...."
Tổng kết
Qua bài hướng dẫn này mình muốn các bạn nhớ vài điều:
Thứ nhất, trước khi làm bài phải đọc đề và xác định dạng bài tập nào nên làm trước, dạng bài nào nên làm sau. Xác định dựa trên quy tắc 'Dễ trước, khó sau', bài khó là bài không theo thứ tự, là bài thông tin nằm rải rác, là bài hỏi ý tổng quát. Để biết thứ tự làm trước sau của các dạng bài tập thì bạn xem bài viết: nên làm bài nào trước?
Thứ hai, đọc tất cả những thông tin in hoa, in đậm, tiêu đề, etc, cố gắng khoanh vùng thông tin càng chi tiết càng tốt vì như vậy bạn càng dễ scan thông tin.
Thứ ba, phải lọc và ghi nhớ các thông tin khó paraphrase được (ngày / tháng / năm, tên riêng, danh từ đặc thù, etc). Đây chính là những manh mối đắt giá giúp ta lần ra đáp án trong bài đọc.
Thứ tư, luyện tập thật nhiều thì bạn mới thành thạo được. Để làm được bài này đúng hết là cả một quá trình luyện tập và tích luỹ từ vựng, nên dù có áp dụng mà bạn thấy vẫn làm sai thì là do bạn chưa quen hoặc quan trọng hơn là vốn từ bạn chưa đủ. Làm bài nếu có sai thì phải đọc đi đọc lại bài đó để bạn ngấm từ vựng vào đầu.
Chúc bạn tự học thật hiệu quả. Nếu có thắc mắc thì cứ comment ngay dưới đây, mình sẽ giải đáp nhé.
Đề: Lấy từ cuốn IELTS Cambridge 11, passage 1, test 1, trang 18-20 - NXB ĐH Cambridge
Phần dịch tiếng Việt nội dung bài đọc: trích từ web https://learnvocabinieltsreading.wordpress.com/2017/06/08/truc-vot-chien-ham-mary-rose/
(bạn nào muốn xem bản dịch tiếng Việt của cả bài đọc thì ghé trang này nhé)
Bài do đội ngũ Admin viết